BA TRONG
MỘT NGƯỜI:-
VĂN BIỂN
- NHÀ VĂN, NHÀ VIẾT KỊCH, NHÀ THƠ …
Có người
nói với tôi: “Nha Trang là một Việt Nam thu nhỏ”. Tôi nghiệm ra điều này khi
thấy ngày càng có nhiều người (trong và ngoài nước) chọn Nha Trang là “bến
đậu” ở tuổi xế chiều. Và, cũng bởi luôn có ư tưởng tự hào về thành phố của
ḿnh như vậy, nên tôi đă có dịp biết về ông: Văn Biển – nhà văn (nổi tiếng ở
mảng truyện thiếu nhi), nhà viết kịch (với những vở diễn nổi tiếng … gai góc
của một thời), và c̣n nhiều biệt danh nữa bạn bè gán cho ông nào là: người
lăng mạn cuối cùng của sân khấu, “Hoàng thân” thi nhân, một người chẳng màng
lợi danh, chức tước.. (dù có một lư lịch khá “bề thế” – cháu ruột của cố Thủ
tướng Phạm văn Đồng), vân vân và vân vân...
Tôi đến thăm ông vào một buổi
sáng có những cơn mưa sụt sùi từng đợt của tháng mười âm lịch. Ngôi nhà nằm
ở một góc ngă tư đường thật ấn tượng với “vườn” phong lan đủ chủng loại,
“Ngày nào cũng có hoa” – ông nói. Câu chuyện giữa tôi và ông thỉnh
thoảng bị gián đoạn bởi những đợt mưa to, ông lại đứng lên bước ra ngoài để
đem những chậu lan đă nở hoa vào nhà, rồi đến khi dứt mưa lại đem ra … Ông
giải thích: “Người ta không gọi là trồng lan mà gọi là nuôi lan! Nửa đêm
mưa to cũng phải thức dậy đem lan vào…”
Vốn là một cán bộ địa chất, với 9
năm t́m ṭi và sống cùng với đất đá, sau đó Văn Biển chuyển sang … viết văn,
cùng với lời “răn đe” của người chú ruột: “Cháu đă đọc hết thiên kinh vạn
quyển chưa?”
Từ giải A trong cuộc vận động
sáng tác cho thiếu nhi (1966-1967) với tác phẩm đầu tay “Cô bê 20”, đến nay
gia tài của Văn Biển phải nói … kể không hết bởi ông chẳng nhớ nổi để lập
cho ḿnh một danh mục tác phẩm.
Về mảng văn học thiếu nhi, có thể
kể một số tác phẩm tiêu biểu của Văn Biển như: “Chú bé vô h́nh” – truyện
dài; “Hoa nào đẹp nhất” – kịch thơ; “Mười ngày làm khách” – truyện dài; “Hai
anh em thỏ trắng giống nhau”; “Con cá trên sân thượng”; “Một chuyến vượt
thác” – kịch, “Chú bé và con ngựa gỗ”, “Lời đáng yêu nhất”, “Bé Tuyết”,
“Nhật kư rễ con”, “Ḍng máu bất khuất”… mà trong đó có rất nhiều truyện được
dựng thành phim hoạt h́nh. Bên cạnh mảng truyện thiếu nhi hồn nhiên, trong
sáng và nhẹ nhàng, hay cả ngàn bài thơ t́nh lăng mạn (đă và chưa công bố),
Văn Biển cũng có những tác phẩm sân khấu rất đỗi …. đời.
Kịch bản sân khấu đầu tay khá
thành công của Văn Biển là “Đêm Stockholm” được phát trên đài Tiếng nói Việt
Nam năm 1969 và được nhà xuất bản Văn nghệ Giải phóng in năm 1975. Sau đó
những vở: Trăn trở, Bất hạnh, Chuyện cổ Bát Tràng v…v.. của ông nối tiếp ra
đời và đă được tŕnh diễn ở một số nơi như: Hà Nội, Hải Pḥng, Quảng Ninh,
Huế, Qui Nhơn… Và, c̣n rất nhiều những kịch bản vẫn c̣n …. nằm trong ngăn
kéo. Ông nói: “Đó mới là những kịch bản tâm huyết!”.
Tháng 7/2005, vở kịch “Chỉ tại
chiếc gương” được phát sóng trên VTV1, nhận được rất nhiều lời khen tặng;
người ta đánh giá nó “khác” hơn so với t́nh h́nh đều đều của sân khấu hiện
nay. Nguyên tên gốc kịch bản là “Chiếc gương của chàng ngốc” của Văn Biển.
Có một người làm ra chiếc gương, ai soi vào cũng thấy ḿnh đẹp, trẻ ra và,
thế là gây ngộ nhận và ảo tưởng cho nhiều người. Những điều rắc rối đă xảy
ra. Để chuộc lỗi lầm, nhà bác học làm ra một cái gương khác, bản chất con
người được lộ rơ khi soi ḿnh vào đó.
Tác phẩm này được nhận giải nh́
(không có giải nhất) của Hội Nghệ sĩ sân khấu năm 2005. Tôi hỏi ông cảm
tưởng khi xem vở kịch? Trầm ngâm một chút, ông nói: “Vở kịch phát sóng
thấy không đúng ư ḿnh. Tuyến t́nh yêu là tuyến rất đẹp th́ họ lại bỏ hoàn
toàn. Đến đoạn cuối là cảnh rừng thu êm ả, cô gái và chàng trai mơ về một
chiếc kính viễn vọng để nh́n lên những v́ sao xa nhất với ư nghĩ: muốn nh́n
vào một thế giới khác thuộc ngày mai, ở đó con người không cần đến chiếc
gương giả – một thế giới trong lành, trung thực, th́ lại không có. Tuy
nhiên, dù sao cũng cám ơn đài VTV1 đă cho tôi tái xuất giang hồ sau hơn hai
mươi năm vắng bóng…”
Xem hay đọc kịch bản của Văn
Biển, người ta sẽ thấy ở trong đó là ḷng nhân hậu, nhẹ nhàng mà thâm thúy,
hóm hỉnh mà đau để rồi phải suy gẫm.
“Đêm Stockholm” được ông lấy “tứ”
từ câu chuyện nhỏ, có một nhà trí thức người Thụy Điển trên đường đi t́m đến
cái chết, bỗng dưng thấy một cuộc meeting ủng hộ người Việt Nam, thế là ông
ta liền bỏ ư định tự tử và viết thư gởi đến Bác Hồ với mong muốn sang Việt
Nam chiến đấu. “Đêm Stockholm” nói về chuyện xảy ra trong một gia đ́nh cánh
tả Thụy Điển. Có một nhà điêu khắc tài ba, người chú là thương binh của đoàn
quân quốc tế thời nội chiến Tây Ban Nha, người cháu là sinh viên muốn phá
tan mọi trật tự. Những cuộc đối thoại giữa các thế hệ được thể hiện qua lời
đối thoại của các tượng đá tưởng như đi vào bế tắc, cho đến khi mọi người ùa
xuống phố ḥa vào biển người đang reo ḥ ủng hộ cuộc nổi dậy của 40 thị
thành miền Nam Việt Nam năm 1968.
Năm 1980, vở Trăn Trở được dựng.
Đó là trăn trở của một bộ phận thành thị miền Nam trước khi nhập vào cuộc
sống mới.
Hầu như toàn bộ những kịch bản
của Văn Biển đều được viết cách đây... 30 năm, thế nhưng đến giờ đọc lại
người ta thấy nó vẫn rất hợp thời. Ví dụ như “Chiếc gương của chàng ngốc”,
“Thành phố con tàu” hay “Câu chuyện que diêm thứ tám”… Văn Biển nói: “Tôi
viết về những vấn đề muôn thuở. Năm 1982, sau khi xem duyệt vở Thành phố con
tàu ở Lâm Đồng nhà báo Thép Mới đă nói: “Đi trước một bước th́ được, nhưng
đi trước năm bước th́ không nên”. Thế nhưng, tôi đă viết về những linh cảm
của ḿnh và thấy nó đúng ở mọi thời điểm. Ví dụ như trong Thành phố con tàu,
một câu chuyện thơ mộng, nhiều t́nh tiết éo le, tất cả nhằm nói lên một khát
vọng đổi mới. Hay, trong Câu chuyện que diêm thứ tám, mượn thế giới linh hồn
để nói về cơi người, nhằm chuyển tải một thông điệp: cuộc sống là đáng quư
và trân trọng, một phân vuông trên da thịt quư gấp vạn lần các linh hồn cộng
lại, gieo thế nào th́ sẽ gặt thế ấy. Sức khoẻ, tuổi trẻ, niềm vui… những thứ
trời không ban riêng cho ai, nhưng rồi có kẻ giữ được, người không. Có người
có bao diêm, quét măi đến que thứ 8 mới cháy. Ông ta nghĩ que diêm thứ 8 đó
tốt, bèn cẩn thận cất đi để dành lúc khác dùng. Con người ta cũng ví như que
diêm thứ 8…”
Say mê với sân khấu, có thể nói
Văn Biển là một người mơ mộng và lăng mạn hầu như cả đời. Trong khi mọi
người chạy theo cơm áo gạo tiền th́ ông vẫn một ḷng với kịch. Năm 1981, ông
thành lập đoàn kịch “Sân khấu thể nghiệm” với mong muốn dựng kịch cho đồng
nghiệp và cho ḿnh, cất lên tiếng nói trung thực với Đảng, với nhân dân.
“Trong 12 nước xă hội chủ nghĩa thời đó, chỉ duy nhất Việt Nam có một đoàn
kịch tư nhân” – ông tự hào về điều này. Thế nhưng, sau vở đầu tiên (vở Sami
của Nguyễn Khắc Phục) đoàn kịch … ră đám v́ một lư do tế nhị. Không nản
ḷng, chưa đầy một năm sau, từ Hà Nội, ông vào Đà Lạt và cũng tiếp tục làm
một sân khấu thể nghiệm khác. Tiền bạc là phù vân - lấy thù lao của vở
Chuyện cổ Bát Tràng (nhà hát Trần Hữu Trang diễn cải lương hàng đêm) nuôi
diễn viên lấy từ Hà Nội, Hải Pḥng, TP. Hồ chí Minh và Đà Lạt. Chưa kịp ra
mắt Thành phố con tàu th́ lại ră gánh lần nữa... Sau đó, buồn t́nh ông sang
Đức 5 năm đi hết các nước Đông Aâu, … làm thơ, ghi chép hàng chục tập tùy
bút (chưa công bố). Tập thơ “Muộn” (Nhà xuất bản Phụ nữ - 1992 ) ra đời
trong bối cảnh này.
Đi mỏi chân rồi cũng về lại quê
hương, lại lao vào….. giấc mộng kịch trường. Giờ đây ông đang lên một kế
hoạch hợp tác cùng với đài Phát thanh Truyền h́nh Khánh Ḥa thành lập một …
đoàn kịch.
Ông nói với tôi niềm đam mê của
ḿnh về thế giới sân khấu đầy ma lực của ngôn từ và h́nh ảnh: “Hồi đó,
khi có ư định viết kịch, tôi đă vào thư viện và nhớ chỉ t́m đọc duy nhất
cuốn sách: Viết kịch là ǵ? của Hạ Diễn, dày khoảng 30 trang. Rồi sau đó th́
viết. Kịch phải có chất triết lư để giữ người ta lại và đồng thời phải có
chất thơ để tâm hồn người ta được thăng hoa. Lời thoại phải làm sao thể hiện
được cốt truyện, tính cách nhân vật … Đọc một cuốn sách người ta có thể
ngưng lại nửa chừng, nhưng xem một vở kịch th́ khác. Một phút trên sân khấu
là vàng, không được có một chi tiết thừa; hai giờ với khán giả, để giữ họ
ngồi lại trên ghế là cả một nghệ thuật, đ̣i hỏi tài năng, tâm huyết của
người viết và người diễn”.
Tôi hỏi ông về những … gai góc
trong các kịch bản của ông mà người ta thường gọi là “có vấn đề”? Ông nói:
“Mười bảy năm tôi sống trong nhà cụ Phạm văn Đồng, cụ là người đầu tiên đọc
những kịch bản của tôi. Chưa bao giờ cụ nói tôi viết có vấn đề cả…“.
Giải thích cho việc chọn Nha
Trang là nơi ở cuối cùng sau khi bôn ba khắp bốn phương, ông đọc cho tôi 4
câu thơ: “Mây trắng đêm nay về đâu ngủ/Thung lũng t́nh yêu hay ở đèo
cao?/Hồn ta đó tựa như chùm mây nọ/Lang thang năm tháng biết nơi nào?”
Văn Biển là một người thật hạnh
phúc – khi giờ đây, giữa thiên nhiên thu nhỏ mỗi ngày ông lại luôn bận rộn
với công việc. Ở tuổi 77, một ngày của ông bắt đầu từ … 2 giờ sáng ra ngồi
vườn lan làm thơ, viết văn. 6 giờ đi tắm biển “là người già nhất bơi đều đặn
và xa nhất” – ông nói; rồi về nhà ngồi viết trên chiếc bàn gương trong… gian
bếp có cửa trông ra vườn phong lan.
Năm rồi ông vừa xong phần 1
truyện dài cho thiếu nhi “Chuyện mới về nàng Bạch Tuyết”; sắp tới tập thơ
“Tự cháy” – Nhà xuất bản Hội nhà văn khá đầy đặn sẽ ra mắt độc giả. Hiện ông
đang hoàn thành một bộ phim truyền h́nh nhiều tập cho thanh niên theo “đơn
đặt hàng”.
- Ngoài những đam mê trên, xin
hỏi có hơi ṭ ṃ, nhà văn c̣n nỗi đam mê nào khác? Tôi hỏi ông khi nh́n thấy
tủ kính trong pḥng khách nhà ông bày rất nhiều những tác phẩm nghệ thuật
làm từ đá thiên nhiên và trước sân nhà ông cũng có nhiều đá từ cây hoá
thạch.
Ông trả lời:
- Hồi c̣n làm việc ở bộ phận
Thạch học chuyên nghiên cứu về khoáng vật, tôi có viết trong nhật kư: “Nếu
có kiếp thứ hai xin được đầu thai vào địa chất”. Thế rồi, như một duyên nợ
từ địa chất đột ngột chuyển sang lĩnh vực thơ văn. Nhưng chưa chờ tới kiếp
sau, ở tuổi xế chiều lại trở về niềm say mê với đá. Đá hóa thạch và đá thiên
nhiên.
- Có mối liên hệ ǵ giữa đá và
thơ văn?
- Hàng triệu năm thiên nhiên mới
tạo thành được cây hoá thạch, đó là vẻ đẹp, sự ḱ diệu của bàn tay tạo hoá.
Mỗi phiến hoá thạch được cắt mài ra là cả một bức tranh, một bài thơ đẹp.
“Đá ngh́n năm không nói/Lan âm thầm hương tỏa/Trong khu vườn nho nhỏ/Nghe
thầm th́ lan, đá”. Tôi học được ở hoa sự dịu dàng và học được sự thâm
trầm từ đá!
Đào Thị Thanh Tuyền |