Đặc trưng thứ hai là tuy tô
phở ít có hương thơm lừng mùi hồi, quế... như phở Bắc nhưng đằm thắm,
dịu ngọt, và riêng... Nha Trang!
Phở Nha Trang có thể tạm
phân biệt ba loại: phở Bắc thịnh hành từ sau năm 1975, với cách chế
biến đặc trưng của phở Hà Nội (nhưng giờ đây cũng bị "Nha Trang hoá",
vị phở chính gốc Hà Nội đă phai đi nhiều); loại thứ hai là các tiệm do
người chủ có xuất xứ từ Bắc di cư năm 1954, phở này có vị hơi giống
với phở Hoà, hay phở Quyền ở Sài G̣n; và loại thứ ba là phở chính hiệu
Nha Trang, không nơi nào giống được. Các hàng phở này có mặt khắp mọi
nơi từ tiệm ra đến vỉa hè, đối tượng khách đa dạng, từ anh công chức
cho đến cậu học tṛ, người lao động.
Phở Nha Trang được nấu từ
xương ḅ hay xương heo (có khi chỉ toàn xương heo) và gị heo. Hai
loại xương này hầm chung với nhau tạo thành vị phở đặc trưng. Người
bán có bí quyết để khử mùi ḅ. Bánh phở là bánh "phở Nam". Cùng một
loại bánh tráng bột gạo nhưng được phơi khô và xắt máy thành sợi nhỏ.
Để tăng thêm vị ngọt có người cho vào đường phèn, đường cát, mía hay
củ cải...
Một nhúm bánh phở khô kèm
thêm nhúm giá, trụng qua nước nóng cho mềm, bỏ vào tô. Tùy theo yêu
cầu của khách, bên trên là thịt ḅ tái, gân hay gị heo.... Bỏ thêm
hành lá c̣n củ chẻ hai và hành hoa lên mặt, rắc thêm tí tiêu, thêm
chút hành phi, thế là có ngay một tô phở (Nha Trang). Khi ăn nêm thêm
tương đen, tương đỏ, hay mắm ớt (ớt xiêm cắt nhỏ đặc lềnh trong chén
mắm hấp dẫn).
Nếu là phở Bắc th́ có phở
Hồng Giang ở đường Hoàng Hoa Thám, nếu là phở Bắc "lai Nha Trang" có
phở 70 (Bạch Đằng), phở 63 Lê Thành Phương… Phở chính hiệu Nha Trang
th́ muôn trùng, giá khá mềm. Bốn ngàn đồng một tô cũng đủ thịt ḅ,
rau, hành các loại… Rẻ mà ngon!